Thời kỳ Chiến tranh Thế giới II Máy_bay_tiêm_kích_phản_lực_thế_hệ_thứ_nhất

He 162 của Đức.Gloster Meteor của Anh.Dassault Ouragan của Pháp.MiG-9 của Liên Xô.P-80 của Hoa Kỳ.Mẫu máy bay tiêm kích phản lực Nakajima J9Y 'Kikka' năm 1945 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

Những nỗ lực ban đầu là các mẫu máy bay cánh thẳng dưới âm dựa chủ yếu vào các khái niệm thiết kế đã hoạt động tốt với động cơ piston. Một số mẫu máy bay trong số đó được thử nghiệm bằng cách sử dụng động cơ piston để đánh giá khung thâm trước khi động cơ phản lực được lắp đặt.[3]

Máy bay phản lực đầu tiên hoạt động là loại He 178, đây là thiết kế của Đức, nó bay lần đầu vào năm 1939. He 178 còn được sử dụng làm cơ sở cho loại He 280 sau này, đây là một thiết kế sẽ đưa tới loại Me 262. Một thiết kế tương tự của Anh là Gloster E.28/39 đã có quy định về một số vũ khí trang bị, nhưng pháo không được trang bị cho bất kỳ mẫu thử nào.

P-59 Airacomet là mẫu máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Mỹ được đưa vào biên chế nhưng nó được xem như là một thiết kế tồi và không được tham chiến. Loại P-51 Mustang động cơ piston có thể đạt vận tốc tối đa cao hơn và có tầm chiến đấu cao hơn nhiều so với P-59.

Liên Xô cũng không nằm ngoài thời cuộc, họ cũng phát triển những mẫu tiêm kích phản lực cho riêng mình như các mẫu thiết kế Mikoyan-Gurevich I-250Sukhoi Su-5.

Người Nhật cũng có một số mẫu thử nghiệm như Nakajima J9Y "Kikka", nhưng chúng không được đưa vào biên chế.[4]

Đưa vào trang bị

Kế hoạch phát triển cho loại tiêm kích phản lực [[Messerschmitt Me 262 "Schwalbe" được đưa ra vào năm 1939, chiếc đầu tiên trang bị động cơ phản lực cất cánh năm 1942[5]. Nhưng phải đến năm 1944 thì Me 262 mới được đưa vào trang bị cho các đơn vị chiến đấu[5], nhưng hiệu quả của nó không được đạt như mong muốn do cơ sở hạ tầng bị tàn phá của Đức quốc xã. Chiến tranh Thế giới II đã kết thúc trước khi máy bay tiêm kích phản lực trở nên phổ biến. Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô cũng có các máy bay tiêm kích phản lực được đưa vào biên chế trước khi kết thúc chiến tranh, nhưng chúng không tham chiến nhiều. Meteor của Anh được sử dụng để đánh chặn tên lửa hành trình V-1 của Đức. Lockheed P-80 của Hoa Kỳ được biên chế vào cuối chiến tranh và được triển khai tới châu Âu nhưng quá muộn để tham chiến. Mẫu Mikoyan-Gurevich I-250 của Liên Xô cũng chỉ được đưa vào biên chế lúc chiến tranh kết thúc.

Những máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên không mang radar hay các thiết bị điện tử phức tạp khác và có các thiết kế tương tự như các máy bay động cơ piston được sử dụng trong chiến tranh. Súng máy và pháo là vũ khí chính, dù Me 262 cũng được trang bị các đạn phản lực không đối không để tấn công đội hình máy bay ném bom của quân Đồng mình ngoài ra nó cũng có thể mang bom.

Một số loại máy bay điển hình trong nhóm này như:

Các loại máy bay khác được chế tạo hay phát triển trong chiến tranh, nhưng không tham chiến. Rất nhiều loại được đưa vào trang bị ngay sau chiến tranh. Một số loại máy bay như:

Máy bay của Liên Xô dựa chủ yếu vào động cơ của Anh (gồm cả động cơ Rolls-Royce Nene) và thiết kế của Đức do thời kỳ này Liên Xô chưa chế tạo hoàn chỉnh được loại động cơ phản lực nào, và chúng chủ yếu được phát triển sau Chiến tranh Thế giới II.[6] Mẫu máy bay Ouragan của Pháp cũng được thiết kế vào cuối thập niên 1940 chứ không phải trong thời chiến.

Hệ thống động cơ hỗn hợp

Những động cơ phản lực ban đầu có khả năng tăng tốc tồi, do đó người ta đã nghĩ ra hệ thống động cơ hỗn hợp, FR Fireball là loại máy bay có hệ thống động cơ như vậy. Nó có động cơ cánh quạt ở mũi và động cơ phản lực ở phía sau và được thiết kế để hoạt động trên tàu sân bay. Mikoyan-Gurevich I-250Sukhoi Su-5 của Nga cũng có thiết kế tương tự nhưng sử dụng động cơ motorjet thay vì động cơ turbojet và không được thiết kế để trang bị trên tàu sân bay.

Những thử nghiệm sau chiến tranh với động cơ hỗn hợp gồm XF2R Dark SharkXF-84H Thunderscreech, một trong những chiếc máy bay ồn nhất từng bay[7]. Thunderscreech được thiết kế cùng thời với mẫu tiêm kích thế hệ 2 là F-104 Starfighter. Không một mẫu máy bay có hệ thống động cơ hỗn hợp nào tham chiến hay được trang bị đại trà, dù Fireball đã được sử dụng trong 2 năm.